NỐI KẾTTRUYỀN THÔNG

TRANG CHỦDIỄN ĐÀNLIÊN HỆ
CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI GIA TRANG GIÁO XỨ VƯỜN CHUỐI




GIÁO HỘI HIỆP HÀNH

ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ

PHIM KHÚC

Tham gia vào đời sống Giáo Hội

Tội lỗi & Thương xót | Tìm hiểu về Cựu Ước

HÌNH ẢNH

Phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ (1)
06.03.2014 15:02

Phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ (1)


Tin Mừng đại lễ Phục Sinh đã dành cho giới phụ nữ một vị thế đáng trân trọng. Họ là những người nhận được tín hiệu Phục Sinh đầu tiên. Họ là những người được Đấng Phục Sinh cho gặp mặt trước hết. Và chính họ còn là những người được trao nhiệm vụ lớn lao là đem Tin Vui Phục Sinh đến cho các Tông đồ.


Tại sao phụ nữ lại có được ưu thế ấy mà không phải là các Tông Đồ ? Phải chăng chỉ vì họ là phụ nữ ? Tất nhiên không phải thế, mà vì những lý do khác.

Vì họ CHÂN THÀNH

Phúc Âm kể : từ sáng sớm khi trời còn tối ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa Giêsu.

Chiều thứ Sáu, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, người Do thái đến xin Philatô cho hạ xác những người bị đóng đinh xuống. Họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày Sabat. Phép tắc thủ tục xong, xác Chúa Giêsu được hạ xuống thì đã chiều tà, và theo phong tục của người Do thái, họ tính ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, khi mỗi người với mắt thường nhìn thấy được ít nhất vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì thế Đức Mẹ cùng với bà Maria Mađalêna và các môn đệ phải hối hả lo chôn xác Chúa Giêsu cho xong để về nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo, vì ngày Sabat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi. Vì hối hả nên các bà về nhà, rồi nhận thấy mình không cẩn thận đủ với Thầy kính yêu của mình, nên bà nán lòng chờ đến sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, đem thuốc thơm đến mồ để ướp lại xác Chúa.

Theo định luật tâm lý: trái tim giới nữ chỉ có một ngăn duy nhất, một khi ngăn ấy đã dành cho ai thì chỉ có yêu một mình người ấy mà thôi. Các phụ nữ này rất yêu mến Chúa Giêsu. Chứng kiến cuộc khổ nạn, các bà càng yêu mến Thầy mình hơn. Họ bất chấp tất cả. Bất chấp sự chết, bất chấp mồ bị niêm phong, bất chấp cả lính canh. Miễn là họ được ở gần vị Thầy tôn quý.


Thiết tưởng, một trái tim chân thành như thế, ở giới nữ cũng như ở bất cứ ai, cũng xứng đáng nhận được Tin Mừng Phục Sinh.


Vì họ TRUNG THÀNH


Trước thảm kịch ngày thứ sáu tuần thánh, chẳng ai bảo ai, các Tông đồ trốn chạy mỗi người một ngả. Mạnh miệng như ông Tôma có lần hạ quyết tâm “Nào cùng lên Giêrusalem chịu chết cả đám”, thế mà trong ngày thương khó của Chúa, ông là “người thợ lặn” giỏi nhất, lặn biệt tăm. Sôi nổi như ông Phêrô có lúc đã quyết liệt “Dẫu mọi người bỏ Thầy, con đây xin đồng sinh đồng tử với Thầy”. Thế mà sau đó chính ông trở thành kẻ chối Chúa táo bạo nhất, không chỉ một lần mà những ba lần. Giuđa bán Thầy giá rẻ bằng 1 tên nô lệ. Đầu Bin Lađen còn được treo giải 5 triệu đôla. Đầu Sađam Hussein tới 36 triệu đôla. Trong khi cái đầu của Thầy chỉ đáng giá …một tháng lương. Các môn đệ trốn chui trốn nhủi vì sợ liên luỵ.

Trong khi ấy, phụ nữ lại là những người gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa trong cuộc khổ nạn. Họ đứng gần dưới chân thánh giá cùng với Mẹ Maria. Họ góp sức trong lúc an táng. Và dẫu Chúa đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ niêm phong, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Và thế là cửa mồ đã mở toang và họ được hạnh phúc là những người đầu tiên ghi nhận sự kiện phục sinh.

Nếu hạnh phúc không phải từ trời rơi xuống, mà “như ngọc trong đá không có cho ai đi qua hững hờ”, thì rõ ràng gặp được Tin Vui Phục sinh chính là hạnh phúc cho họ và cho tất cả những ai đã trung thành gắn bó với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn đời sống hằng ngày, bất luận họ là giới nữ hay giới nam.

Vì họ NHIỆT THÀNH

Hình ảnh người nữ nêu lên trong Phúc âm Phục sinh rất lạ. Thay vì dáng vẻ yểu điệu thục nữ, thay vì những bước chuyển động nhẹ nhàng dịu dàng, thì phụ nữ lại chạy, chạy vội vàng, chạy hớt hải, cắm đầu mà chạy. Nhưng đó chính là hình ảnh sinh động minh họa cho một chuyển động nhiệt thành. Lòng nhiệt thành chính là điều kiện cần thiết để loan tin vui Phục sinh đến với mọi người.

Chẳng phải vì muốn chơi đẹp như phép lịch sự phương Tây, cũng chẳng phải vì tình cờ ngẫu hứng mà Đức Kitô đã dành cho giới nữ ưu tiên ấy. Mà chỉ vì muốn thông qua họ, Ngài cho thấy một chân lý. Đó là tất cả những ai chân thành tin, trung thành hy vọng và nhiệt thành yêu mến gắn bó với Đức Kitô, dù phải trải qua những khổ nạn trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, họ sẽ là những người hạnh phúc biết sống do và cho Đấng Phục sinh.

Đức Kitô là đấng giải phóng. Một trong các chiều kích giải phóng của Ngài là giải phóng phụ nữ. Có người còn cho rằng chính Ngài là người đã khởi xướng phong trào giải phóng phụ nữ. Trong xã hội Do Thái của thời Ngài, người nữ chỉ là một con số không, thế mà Ngài đã đối xử với họ một cách thật trân trọng. Chúa đã quí mến Matta và Maria. Trong nhóm người theo Ngài vẫn có những phụ nữ. Dưới thập giá Ngài, ngoài thánh Gioan ra, chỉ toàn là phụ nữ.

Phụ nữ chân thành, trung thành và nhiệt thành. Phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số nhân loại. Phụ nữ ngày càng khẳng định vị trí, vai trò và tầm ảnh hưởng của mình trên mọi lãnh vực xã hội.

Hình như trong mọi tôn giáo, phụ nữ chiếm đa số thành phần tín hữu giữ đạo. Thế nhưng quyền bính về tôn giáo thì hầu hết lại do người nam nắm giữ. Phải chăng mọi tôn giáo đều mang cái mầm ‘ghét phụ nữ’ (misogynic) hay vì các tôn giáo được khai sinh vào thời đại mà quan niệm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong tổ chức tôn giáo?

Nhưng cũng bởi vì chúng ta vừa là người Việt Nam vừa là Kitô hữu, nên chúng ta mang trong trong lòng mình cùng một lúc hai truyền thống: truyền thống Việt Nam với nhiều dấu ấn của Tam giáo, và truyền thống Kitô giáo với nhiều vết tích của Do Thái giáo. Vì thế, khi nói đến người nữ, một số quan niệm - có thể rất lỗi thời, nhưng vẫn âm ỷ sống - cứ chực trào lên. Về phía Khổng giáo: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Về phía Do Thái giáo, sách Talmud ghi: “Thà đốt sách Torah còn hơn là trao sách ấy cho một phụ nữ”.

Xuyên qua dòng lịch sử thăng trầm, chỗ đứng của người phụ nữ trong các tôn giáo như thế nào?

1. Phụ nữ trong các tôn giáo

a. Do Thái giáo

Trải qua một thời gian thật dài, người phụ nữ Do Thái chẳng những không có quyền lên tiếng ở Hội Đường; mà ngay cả trong tổ chức của các cộng đồng Do Thái, họ cũng không được quyền tham dự. Hai mươi năm trở lại đây, trong các cộng đoàn Do Thái giáo ở ngoài Israel, người ta đã thấy người nữ bắt đầu học hỏi về Talmud. Một số phụ nữ đã trở thành luật sư trong các tòa án cộng đồng Do Thái. Một số người đã được công nhận là rabbi, nghĩa là tiến sĩ luật Do Thái (hiện nay ở Mỹ có hơn 500 nữ rabbi). Tuy nhiên họ chỉ can thiệp vào những công việc toà án và hành chánh. Trong Hội Đường, trước sau như một, Luật Do Thái, Halakhah, vẫn cấm họ lên tiếng; nghĩa là dù họ có tài giỏi và đạo đức đến đâu, thì họ vẫn không có quyền đọc và giải thích Lời Chúa trong Hội Đường.

b. Islam

Luật Hồi Giáo Charia không nhẹ nhàng gì đối với người nữ. Họ luôn phải phục tùng chồng, hoặc cha hoặc anh em trai. Ngay về vấn đề thừa kế họ cũng không có quyền được chia gia sản đồng đều với anh hoặc em trai mình. Giá trị của họ chỉ bằng một nửa người nam. Ví dụ về giá trị của một lời chứng, Kinh Coran nói rõ ràng: lời nói của một người nam có giá trị bằng hai người nữ, vì nếu một người quên, thì người kia sẽ nhắc (II, 282). Tuy nhiên cánh cửa về quyền bính tôn giáo không hoàn toàn đóng đối với họ. Kinh Coran vẫn cho họ được bình đẳng với tư cách là tín hữu. Cho tới nay một số phụ nữ đã được học thần học, và có thể nói về đạo ngoài xã hội. Còn trong đền thờ Hồi Giáo thì người nữ không có quyền lên tiếng. Dĩ nhiên, người nữ chưa thể nào giữ chức vụ imam, nghĩa là trưởng một cộng đoàn cầu nguyện, người có thể xướng kinh cho cộng đoàn. Vào thế kỷ thứ XIV, triết gia Ibn Khaldoun - một người được tôn trọng như Thomas d’Aquin đối với Công giáo -, đã khẳng định rằng người nữ không thể nào giữ được chức vị ấy vì không bao giờ đáp ứng được bốn điều kiện sau: kiến thức, sự công minh, khả năng chuyên môn và sức mạnh thể lý. Tuy nhiên ông cũng nói thêm rằng: dù sao đi nữa, chức vụ này không thể trao cho phụ nữ vì sứ điệp Coran chỉ dành cho người nam.

c. Phật giáo

Phật Giáo khó lòng chấp nhận người nữ bằng hàng với người nam. Giáo lý chấp nhận rằng người nữ ‘cũng’ có khả năng đi đến giác ngộ... nhưng phải thông qua một số điều kiện, mà một trong các điều kiện là phải đầu thai làm một người nam. Ví dụ, truyền thuyết về vị công chúa, con vua Sagara (ngay tên công chúa cũng không được ghi, mà chỉ ghi tên cha mình). Cô ở vào tình trạng sắp giác ngộ. Khi nghe một môn sinh của Đức Phật giảng rằng người nữ cũng có thể trở thành Bồ Tát, cô bèn nhập vào hình hài một người nam (!) và giác ngộ. Qua các thời đại, người nữ đã bắt đầu lên tiếng. Tuy tại Việt Nam và tại Trung Quốc không thấy một sự phản kháng nổi bật nào từ phía phụ nữ, thì tại Kampuchia, tại Sri Lanka, tại Đài Loan, tại Thái Lan, một số phong trào phụ nữ đã nổi lên đòi quyền bình đẳng giữa các thượng tọa và các ni cô, nhưng kết quả cũng chẳng đi đến đâu. Quả thật, Đức Dalai Lama có kêu gọi để cho người nữ được quyền giữ các chức vị trong tôn giáo như các thượng tọa ở Tây Tạng, nhưng cho đến nay điều này vẫn chưa được thực hiện. Năm 1966 một lãnh đạo phong trào phụ nữ đề xuất một bộ luật nhằm đem đến sự bình đẳng trong chức vụ trong Phật Giáo giữa nam giới và nữ giới. Giới thẩm quyền trong đạo đã dứt khoát: “Không có luật đời nào có quyền thay đổi giáo huấn của Đức Phật.” Một tạp chí đăng tải như sau: “Than van về vấn đề kỳ thị nam nữ chỉ là công dã tràng: sự phân biệt ấy là một thực tại gắn liền với kiếp đàn bà.”

2. Phụ nữ trong Kitô giáo

a. Hoài bão của phụ nữ:
Trong Kitô giáo thì chỗ đứng của phụ nữ có vẻ thuận lợi hơn. Những nền thần học hướng về quyền phụ nữ đã được khởi xướng từ hậu bán thế kỷ 20, cùng với những sự thăng tiến về vai trò phụ nữ trong xã hội. Những tiếng nói đòi hỏi quyền bình đẳng phụ nữ khởi đầu với hai biến cố, đó là sự ra đời của phong trào giải phóng phụ nữ và Thần Học Giải Phóng. Tuy nhiên đòi hỏi này từng gặp sự nghi ngờ của hàng giáo phẩm. Dù sao đi nữa, các nhà thần học nữ trong thế kỷ này có một hoài bão cao hơn: họ muốn được tham gia trọn vẹn vào đời sống các Giáo Hội, mà không chỉ dựa vào những khuôn mẫu do người nam đề ra mà thôi. Muốn làm như thế, họ bắt đầu đọc lại Kinh Thánh. Con đường đến với Kinh Thánh vẫn mở rộng đối với phụ nữ hơn là con đường chức vụ quyền bính trong các Giáo Hội Kitô giáo. Họ nối tiếp truyền thống các nữ ngôn sứ thời xa xưa và tìm kiếm trong Kinh Thánh vai trò của họ với tư cách là người nữ. Họ tin rằng cảm nghiệm người nữ hoàn toàn khác biệt với cảm nghiệm của người nam, và họ có bổn phận phải đón nhận gia sản Kinh Thánh cho chính mình.

b. Những hướng đọc Kinh Thánh dưới cái nhìn phụ nữ:
Có ít nhất là ba hướng đọc lại Kinh Thánh dưới cái nhìn phụ nữ.

- Một là tìm cách đọc lại những đoạn Kinh Thánh hầu cho thấy rằng người phụ nữ đã từng bị coi thường. Ví dụ năm 1984, Phyllis Tribble nêu lên vài câu chuyện điển hình, và viết lại trong một tác phẩm của bà dưới nhan đề là Tragic Destinies (Những số phận bi đát): số phận của Haggar, nữ tì của Sarah, đem hiến cho Abraham rồi sau đó bị đuổi đi; số phận của Thamar, con gái của David, bị người anh cùng cha khác mẹ với mình là Amnon hãm hiếp; hay số phận của người con gái Jephté, mà thậm chí ta không biết tên: cô là nạn nhân vì một lời nguyền của cha mình là sẽ tế sát người đầu tiên ông gặp khi ông trở về trong chiến thắng. Đối với Phyllis Tribble, đó không phải là ‘chuyện đời xưa’, nhưng đó vẫn còn là điều đang xảy ra trong thời đại chúng ta: số phận của người nữ bị áp bức.

- Hướng nghiên cứu thứ hai là tìm lại những vị trí của phụ nữ mà cách đọc của nam giới đã làm mờ nhạt đi. Điển hình là Elisabeth Schussler-Fiorenza. Trong tác phẩm In Memory of Her (Để tưởng nhớ đến Bà), bà đã nhắc lại vị trí của người phụ nữ bằng cách lập lại lời sau đây của Chúa: “Nơi nào Phúc âm được rao giảng, trên khắp thế gian, thì người ta sẽ kể lại điều bà đã làm, để tưởng nhớ đến bà”. Qua đó bà cho thấy rằng phụ nữ là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành Giáo Hội và rao giảng Tin Mừng.

- Một trào lưu thứ ba là xét lại ngôn từ trong Kinh Thánh. Ví dụ Virginia Molenkott liệt kê những từ ngữ giống cái mà ngôn ngữ Do Thái dùng để chỉ định Thiên Chúa: như Shekina (Đấng Hiện Diện) hoặc Ruah(Thần Khí). Điều này cho thấy rằng Thiên Chúa là Cha nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ; nói cách khác, Thiên Chúa cũng có nữ tính, và nữ tính này đã bị các giáo phụ làm mờ đi qua các thời đại. Do đó, chỉ có người nữ, với sự nhạy cảm và lối tiếp cận hoàn toàn mang nữ tính mới cân bằng lại quan điểm đầy nam tính từ trước đến giờ đối với Kinh Thánh.


(còn tiếp)

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 



(Theo ubmvgiadinh.org)

BÀI CÙNG CHUYÊN MỤC:

 Về với Cha [22.06.2019 20:52]
 Bố tôi [16.06.2019 22:10]
BÀI MỚI NHẤT:

 Hòa Bình theo Kinh Thánh [02.07.2023 23:57]



Highslide JS
Sơ đồ đường đi đến giáo xứ Vườn Chuối
Bản quyền (c) 2010 thuộc về GIÁO XỨ VƯỜN CHUỐI
Địa chỉ: 199/40/6 Cách Mạng Tháng Tám , Phường 4, Quận 3, TP. HCM
Thiết kế web Ngôi Sao Số